Tafseer Chương Al-Fatihah, Ayah Kursi, Ba Câu Cuối Chương Al-Baqarah Và Một Số Chương Ngắn

Là phân tích ý nghĩa và nội dung của các câu Kinh và các chương ngắn, dựa theo Tafseer Al-Muyassar.

اسم الكتاب: تفسير سورة الفاتحة وقصار المفصل وآية الكرسي وآخر سورة البقرة


تأليف: جماعة من العلماء


نبذة مختصرة: كتاب مترجم إلى اللغة الفيتنامية، عبارة عن تفسير سورة الفاتحة، وقصار المفصل، وآية الكرسي، وآخر سورة البقرة.


Tafseer
Chương Al-Fatihah, Ayah Kursi, Ba Câu Cuối Chương Al-Baqarah Và Một Số Chương Ngắn
(Trích từ Tafseer Muyassar)

>Tiếng Việt – Vietnamese – <فيتنامية
        
Tập Thể Đại Học Giả
Trung Tâm Ấn Loát Kinh Qur’an
Trực Thuộc Quốc Vương Fahd




Biên dịch: Abu Zaytune Usman Ibrahim
Kiểm thảo: Mohamed Djandal


تفسير سورة الفاتحة وقصار المفصل وآية الكرسي وآخر سورة البقرة

        

جماعة من العلماء
مجمع الملك فهد لطباعة المصحف الشريف




ترجمة: أبو زيتون عثمان بن إبراهيم
مراجعة: محمد زيدان

Chương Al-Fatihah

Al-Fatihah có nghĩa là lời mở đầu hoặc là khai đề. Chương này được gọi là Al-Fatihah vì nó là chương mở đầu của Thiên Kinh Qur’an. Chương Al-Fatihah cũng được gọi là “Sab’u Al-Matha-ni” có nghĩa là “bảy câu được lặp đi lặp lại” bởi vì nó được đọc trong mỗi Rak’at của lễ nguyện Salah. Ngoài hai tên này, chương Al-Fatihah còn có những tên gọi khác, chẳng hạn như Qur’an Azhim (Qur’an Vĩ Đại), Ummu Al-Qur’an (Mẹ của Qur’an),...
﴿بِسۡمِ ٱللَّهِ ٱلرَّحۡمَٰنِ ٱلرَّحِيمِ ١﴾
Nhân danh Allah, Đấng rất mực Độ Lượng, Đấng rất mực Khoan Dung
﴿بِسۡمِ ٱللَّهِ﴾ - Nhân danh Allah mang ý rằng bề tôi xin bắt đầu đọc Qur’an với đại danh của Ngài “Allah”, và cầu xin Ngài phù hộ đại danh đó của Ngài.
“اللهُ” – “Allah” là đại danh của Thượng Đế – Đấng Tạo Hóa, Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Năng, Đấng Duy Nhất đáng được thờ phượng không có đối tác để chia sẻ. “Allah” là tên gọi chỉ dành riêng cho Ngài không được phép gọi ai (vật) khác ngoài Ngài.
“الرحمن” – “Arrahman” có nghĩa là Đấng Độ Lượng đối với tất cả mọi tạo vật của Ngài, sự độ lượng của Ngài bao trùm tất cả mọi vạn vật, bao trùm cả những người có đức tin và những người vô đức tin.
“الرحيم” – “Arrahim” có nghĩa là Đấng Khoan Dung. Sự Khoan Dung của Ngài chỉ dành riêng cho những người có đức tin.
“Arrahman” và “Arrahim” là hai đại danh trong các đại danh của Allah. Cả hai tên gọi này khẳng định thuộc tính nhân từ và khoan dung của Ngài.
﴿ٱلۡحَمۡدُ لِلَّهِ رَبِّ ٱلۡعَٰلَمِينَ ٢﴾
{Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng Allah, Đấng Chủ Tể của vũ trụ và muôn loài.}
 Ca tụng và tán dương Allah I bởi các thuộc tính tối cao và hoàn hảo của Ngài, bởi những ân huệ công khai và thầm kín của Ngài, bởi những ân huệ tôn giáo và đời sống thế tục. Ngài đáng được các bề tôi của Ngài ca ngợi và tạ ơn, và chỉ có Ngài duy nhất đáng được vinh dự này, bởi vì Ngài là Đấng đã tạo hóa ra vũ trụ và mọi vạn vật, là Đấng Điều Hành và Chi Phối mọi sự việc, là Đấng Trông Coi và Cung Dưỡng cho các tạo vật của Ngài bằng các ân huệ của Ngài, là Đấng Trông Coi và Che Chở cho các vị Wali của Ngài qua đức tin Iman và việc làm ngoan đạo – thiện tốt của họ.
﴿ٱلرَّحۡمَٰنِ ٱلرَّحِيمِ ٣﴾
{Đấng rất mực Độ Lượng, Đấng rất mực Khoan Dung.}
Sự Độ Lượng của Ngài đối với tất cả mọi vạn vật, cả những ai có đức tin và những ai không có đức tin, còn Đức Khoan Dung của Ngài chỉ dành riêng cho những người có đức tin.
﴿مَٰلِكِ يَوۡمِ ٱلدِّينِ ٤﴾
{Đức Vua của Ngày Phán xét.}
Allah I là Đức Vua của Ngày Phán Xét cuối cùng, Ngày mà Ngài sẽ xét xử và thưởng phạt loài người và loài Jinn tương ứng với việc làm của họ trên thế gian. Việc người Muslim đọc câu Kinh này trong mỗi Rak’at của lễ nguyện Salah hằng ngày là nhằm nhắc y luôn nhớ đến Ngày Phán Xét cuối cùng giúp y luôn ở trong tư thế sẳn sàng qua các việc làm ngoan đạo và thiện tốt, dừng và tránh xa những việc làm tội lỗi và trái lệnh Ngài.
﴿إِيَّاكَ نَعۡبُدُ وَإِيَّاكَ نَسۡتَعِينُ ٥﴾
Chỉ với Ngài bầy tôi thờ phượng và chỉ với Ngài bầy tôi cầu xin sự trợ giúp.}
Bầy tôi chỉ thờ phượng một mình Ngài duy nhất, bầy tôi không thờ phượng bất cứ ai (vật) khác ngoài Ngài, bởi vì chỉ có Ngài mới đáng được thờ phượng; và bầy tôi cũng chỉ khẩn cầu sự phù hộ từ nơi một mình Ngài trong tất cả mọi vụ việc của bầy tôi, bởi lẽ tất cả mọi sự việc đều nằm trong tay và quyền năng của Ngài, không một ai hay vật gì trong tạo vật của Ngài có quyền năng chi phối bất cứ sự vật nào dù sự vật đó chỉ nhỏ bằng hạt nguyên tử đi chăng nữa.
Câu Kinh này là bằng chứng rằng người bề tôi không được phép hướng bất cứ hình thức thờ phượng nào đến ai (vật) khác ngoài Allah I. Việc cầu nguyện, khấn vái, giết tế, Tawwaf cũng như tất cả những việc làm mang tính thờ phượng khác chỉ dành cho một mình Allah duy nhất, không được chia sẻ với một ai (vật gì) khác cùng với Ngài.
Trong câu Kinh này còn chứa đựng phương thuốc điều trị tâm bệnh: bệnh Riya’ (phô trương, không hoàn toàn thành tâm vì Allah I), bệnh tự đắc, và bệnh tự cao tự đại.
﴿اهۡدِنَا ٱلصِّرَٰطَ ٱلۡمُسۡتَقِيمَ ٦﴾
{Xin Ngài hướng dẫn bầy tôi con đường ngay chính.
Xin Ngài soi sáng, chỉ dắt bầy tôi đi trên con đường Ngày Chính – tôn giáo Islam. Xin Ngài phù hộ bầy tôi luôn vững bước trên con đường này cho tới khi quay về trình diện Ngài, bởi lẽ đây là con đường dẫn đến sự hài lòng và Thiên Đàng nơi Ngài, không có bất cứ con đường nào khác làm cho người bề tôi đến được với niềm hạnh phúc đích thực ngoài con đường này.
﴿صِرَٰطَ ٱلَّذِينَ أَنۡعَمۡتَ عَلَيۡهِمۡ غَيۡرِ ٱلۡمَغۡضُوبِ عَلَيۡهِمۡ وَلَا ٱلضَّآلِّينَ ٧﴾
Con đường của những người mà Ngài đã ban ân phúc, không phải con đường của những người mà Ngài đã phẫn nộ và giận dữ, cũng không phải con đường của những người lầm lạc!}.
Bầy tôi cầu xin Ngài hướng dẫn con đường của những người mà Ngài đã ban ân phúc, ý nói con đường của các vị Nabi, các vị Thiên sứ cũng như những người Siddeeq, những người chết Shaheed và những người ngoan đạo, bởi họ là những người được hướng dẫn và luôn ngay chính trên con đường hướng về Ngài. Bầy tôi xin Ngài chớ bỏ mặc bầy tôi đi trên con đường của những người mà Ngài phẫn nộ và giận dữ, bởi họ là những người biết chân lý nhưng không làm theo, và họ chính là những người Do thái giáo. Bầy tôi cũng xin Ngài chớ bỏ mặc bầy tôi đi trên con đường của những người lầm lạc, tức những người không được hướng dẫn đúng đường và họ là những người Thiên Chúa giáo.
Lời cầu nguyện này là liều thuốc điều trị trái tim của tín đồ Muslim khỏi những căn bệnh bất tuân, ngu dốt và lệch lạc và cũng là bằng chứng khẳng định rằng Islam là ân huệ lớn nhất trong các ân huệ của Allah I dành cho đám bầy tôi của Ngài.
Ai biết được điều chân lý rồi làm theo điều chân lý thì đó là người thuộc những người đi trên con đường Ngay Chính. Các vị Sahabah của Thiên sứ e là những người tiên phong đi trên con đường đó sau các vị Nabi và các vị Thiên sứ của Allah. Cho nên, câu Kinh cũng là bằng chứng khẳng định phúc đức và vị trí cao đẹp của các vị Sahabah – cầu xin Allah I hài lòng về họ!
Theo Sunnah, khuyến khích người đọc chương Al-Fatihah trong lễ nguyện Salah nói “آمين” – “Ameen” sau khi đã đọc xong.  Lời “Ameen” có nghĩa là “Lạy Allah, xin Ngài chấp nhận!”. Lời “Ameen” không phải là câu Kinh của chương Al-Fatihah, tất cả các tín đồ Muslim trong giới học giả đều đồng thuận điều này và đều đồng thuận không cho ghi trong các quyển Kinh Qur’an.
********
Ayah Kursi

﴿ٱللَّهُ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ ٱلۡحَيُّ ٱلۡقَيُّومُۚ لَا تَأۡخُذُهُۥ سِنَةٞ وَلَا نَوۡمٞۚ لَّهُۥ مَا فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَمَا فِي ٱلۡأَرۡضِۗ مَن ذَا ٱلَّذِي يَشۡفَعُ عِندَهُۥٓ إِلَّا بِإِذۡنِهِۦۚ يَعۡلَمُ مَا بَيۡنَ أَيۡدِيهِمۡ وَمَا خَلۡفَهُمۡۖ وَلَا يُحِيطُونَ بِشَيۡءٖ مِّنۡ عِلۡمِهِۦٓ إِلَّا بِمَا شَآءَۚ وَسِعَ كُرۡسِيُّهُ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضَۖ وَلَا يَ‍ُٔودُهُۥ حِفۡظُهُمَاۚ وَهُوَ ٱلۡعَلِيُّ ٱلۡعَظِيمُ ٢٥٥﴾ [سورة البقرة: 255]
{Allah! Không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài, Ngài là Đấng Hằng Sống, Đấng Tự Hữu và Nuôi Dưỡng vạn vật, Ngài không buồn ngủ và cũng không ngủ. Mọi vật trong các tầng trời và trái đất đều là của Ngài. Ai là người có thể can thiệp được với Ngài nếu không có phép của Ngài? Ngài biết điều xảy ra trước họ và điều xảy ra sau họ. Họ không thể bao quát được sự hiểu biết của Ngài về bất cứ điều gì ngoại trừ điều nào Ngài muốn cho họ biết. Bệ đặt đôi bàn chân của chiếc Ngai Vương của Ngài bao trùm các tầng trời và trái đất; và việc quản lý trời đất không làm cho Ngài mỏi mệt vì Ngài là Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ Đại.} (Chương 2 – Al-Baqarah, câu 255).
Trong câu Kinh này, Allah I cho chúng ta biết rằng chỉ có Ngài, một mình Ngài duy nhất mới đáng được thờ phượng bởi lẽ:
    Ngài là Đấng Hằng Sống tức Ngài là Đấng mà tất cả mọi ý nghĩa của sự sống đích thực và hoàn hảo đều thuộc về nơi Ngài và Ngài là Đấng sẽ sống mãi và bất diệt.
    Ngài là Đấng Tự Hữu và nuôi dưỡng vạn vật có nghĩa là Ngài không lệ thuộc vào bất cứ thứ gì ngoài Ngài, Ngài tồn tại bằng quyền năng và sức mạnh của riêng Ngài, Ngài độc lập và tự cung tự cấp dưới dạng thức tối cao tuyệt đối của riêng Ngài; và Ngài chính là Đấng mà mọi vạn vật phải lệ thuộc vào Ngài.
    Ngài không buồn ngủ và cũng không bao giờ ngủ có nghĩa là Ngài là Đấng có sức mạnh và quyền năng tuyệt đối nên Ngài không cần ngủ và sự buồn ngủ không xảy ra với Ngài, bởi vì ngủ và sự buồn ngủ là thuộc tính yếu kém của tạo vật chứ không phải là thuộc tính của Ngài.
    Mọi vạn vật trong các tầng trời và trái đất đều là của Ngài có nghĩa là tất cả mọi vạn vật trong vũ trụ càn khôn này đều nằm trong sự điều hành và chi phối của Ngài, nằm trong tầm kiểm soát của Ngài.
    Ai là người có thể can thiệp được với Ngài nếu không có phép của Ngài? Có nghĩa là không một ai có thể can thiệp cho ai ở nơi Ngài trừ phi có phép của Ngài.
    Ngài biết điều xảy ra trước họ và điều xảy ra sau họ có nghĩa là kiến thức của Ngài bao trùm tất cả mọi vạn vật. Tất cả mọi vạn vật, mọi sự việc, và mọi hiện tượng ở quá khứ, hiện tại hay tương lai đều nằm trong tầm kiểm soát của Ngài. Những gì đã diễn ra ở quá khứ, những gì đang diễn ra ở hiện tại và những gì sắp hoặc sẽ diễn ra ở tương lai đều nằm trong kiến thức thông lãm tuyệt đối của Ngài.
    Họ không thể bao quát được sự hiểu biết của Ngài về bất cứ điều gì ngoại trừ điều nào Ngài muốn cho họ biết. Điều này muốn nói rằng tất cả mọi thứ đều nằm trong kiến thức của Ngài, nhưng ngược lại, không ai trong tạo vật của Ngài có thể hiểu biết về một điều nào đó trừ phi Ngài đã dạy và ban cho y kiến thức.
    Bệ đặt đôi bàn chân của Ngài nơi chiếc Ngai Vương của Ngài bao trùm các tầng trời và trái đất, và không ai trong tạo vật của Ngài biết cụ thể cái bệ đó như thế nào mà chúng ta chỉ khẳng định rằng nó vĩ đại như Ngài đã mô tả.
    Và việc quản lý trời đất không làm cho Ngài mỏi mệt vì Ngài là Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ Đại có nghĩa là việc điều hành mọi sự hoạt động của vũ trụ càn khôn cũng như việc kiểm soát và giám sát mọi vạn vật không hề làm ảnh hưởng đến quyền năng và sức mạnh của Ngài vì Ngài là Thượng Đế Toàn Năng – Tối Cao nhất và Vĩ Đại nhất.
    Câu Kinh này là câu Kinh thiêng liêng nhất trong Qur’an, được gọi là Ayah Kursi.
********
Ba Câu Kinh Cuối Của Chương Al-Baqarah

﴿لِّلَّهِ مَا فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَمَا فِي ٱلۡأَرۡضِۗ  وَإِن تُبۡدُواْ مَا فِيٓ أَنفُسِكُمۡ أَوۡ تُخۡفُوهُ يُحَاسِبۡكُم بِهِ ٱللَّهُۖ فَيَغۡفِرُ لِمَن يَشَآءُ وَيُعَذِّبُ مَن يَشَآءُۗ وَٱللَّهُ عَلَىٰ كُلِّ شَيۡءٖ قَدِيرٌ ٢٨٤﴾ [سورة البقرة: 284]
{Mọi vạn vật trong các tầng trời và mọi vạn vật trong trái đất đều là của Allah, và nếu các ngươi bộc lộ hay giấu kín điều nằm trong lòng của các ngươi thì Allah sẽ vẫn thanh toán các ngươi về điều đó. Bởi thế, Ngài sẽ tha thứ cho ai Ngài muốn và sẽ trừng phạt ai Ngài muốn. Và Allah là Đấng Toàn Năng trên mọi thứ.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 284).
Allah I phán cho biết rằng mọi vạn vật trong vũ trụ càn khôn này đều nằm trong sự điều hành và chi phối của Ngài. Không có bất cứ điều gì, vật gì thoát khỏi tầm kiểm soát của Ngài. Con người dù có công khai hay giấu kín trong lòng thì Ngài vẫn biết tường tận. Rồi Ngài sẽ phán xét và thanh toán tất cả mọi việc làm của con người. Nếu muốn Ngài sẽ tha thứ và nếu muốn Ngài sẽ bắt tội, không ai có quyền can thiệp. Và Ngài là Đấng Toàn Năng trên mọi thứ tức không có gì làm khó Ngài, bất cứ thứ gì Ngài muốn thì Ngài chỉ cần phán “thành” thì nó sẽ thành giống như ý của Ngài.
Allah I cho biết rằng Ngài sẽ phán xét và thanh toán những gì công khai bên ngoài cùng với những gì thầm kín được che giấu trong lòng, nhưng vì đức Khoan Dung của Ngài đối với những người Muslim nên Ngài không bắt tội đối với những ý nghĩ xấu thầm kín trong lòng họ nếu như họ chưa nói hoặc chưa hành động. Thiên sứ của Allah e nói:
{إِنَّ اللهَ تَجَاوَزَ لأُمَّتِى عَمَّا وَسْوَسَتْ أَوْ حَدَّثَتْ بِهِ أَنْفُسَهَا، مَا لَمْ تَعْمَلْ بِهِ أَوْ تَكَلَّمْ} رواه البخاري ومسلم.
“Quả thật, Allah sẽ xí xóa cho cộng đồng tín đồ của Ta đối với những điều xấu được toan tính trong lòng nhưng chưa thực hiện hoặc chưa nói ra.” (Albukhari, Muslim).
﴿ءَامَنَ ٱلرَّسُولُ بِمَآ أُنزِلَ إِلَيۡهِ مِن رَّبِّهِۦ وَٱلۡمُؤۡمِنُونَۚ كُلٌّ ءَامَنَ بِٱللَّهِ وَمَلَٰٓئِكَتِهِۦ وَكُتُبِهِۦ وَرُسُلِهِۦ لَا نُفَرِّقُ بَيۡنَ أَحَدٖ مِّن رُّسُلِهِۦۚ وَقَالُواْ سَمِعۡنَا وَأَطَعۡنَاۖ غُفۡرَانَكَ رَبَّنَا وَإِلَيۡكَ ٱلۡمَصِيرُ ٢٨٥﴾ [سورة البقرة : 285]
{Thiên sứ (Muhammad) tin vào những gì được ban xuống cho Y từ Thượng Đế của Y và những người có đức tin cũng tin tưởng như thế. Tất cả đều tin tưởng nơi Allah, các Thiên Thần của Ngài, các Kinh sách của Ngài và các vị sứ giả của Ngài. Họ đều nói: Bầy tôi không phân biệt và kỳ thị một vị nào trong các Sứ giả của Ngài. Bầy tôi xin nghe và vâng lời. Xin Ngài tha thứ cho bầy tôi. Lạy Thượng Đế của bầy tôi, chắc chắn bầy tôi sẽ quay lại với Ngài.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 285).
Allah I phán cho biết rằng, Muhammad – vị Thiên sứ của Ngài có niềm tin vững chắc và kiên định nơi những gì mà Ngài đã mặc khải cho Người, và những người nào có đức tin cũng vậy, họ đều tuyệt đối tin tưởng và làm theo Qur’an dạy bảo. Tất cả họ đều tin Allah là Thượng Đế của họ, là Đấng mà họ phải thờ phượng, là Đấng với các thuộc tính tối cao và hoàn hảo tuyệt đối. Tất cả họ đều tin nơi các Thiên Thần của Ngài, tin nơi các Kinh Sách được Ngài ban xuống cho các vị Thiên sứ của Ngài để họ rao truyền cho nhân loại. Tất cả họ đều tin nơi toàn bộ các vị Thiên sứ của Ngài, không phân biệt và kỳ thị bất cứ vị nào trong số họ.
Allah I cho biết rằng, Thiên sứ Muhammad và những người có đức tin mỗi khi có lệnh từ Allah thì họ luôn nói: Lạy Thượng Đế, bầy tôi xin nghe và vâng lời. Và họ cũng thường cầu nguyện: Lạy Thượng Đế, bầy tôi hy vọng Ngài tha thứ tội lỗi, bởi vì Ngài là Thượng Đế của bầy tôi và bầy tôi sẽ phải quay trở về với Ngài.
﴿لَا يُكَلِّفُ ٱللَّهُ نَفۡسًا إِلَّا وُسۡعَهَاۚ لَهَا مَا كَسَبَتۡ وَعَلَيۡهَا مَا ٱكۡتَسَبَتۡۗ رَبَّنَا لَا تُؤَاخِذۡنَآ إِن نَّسِينَآ أَوۡ أَخۡطَأۡنَاۚ رَبَّنَا وَلَا تَحۡمِلۡ عَلَيۡنَآ إِصۡرٗا كَمَا حَمَلۡتَهُۥ عَلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِنَاۚ رَبَّنَا وَلَا تُحَمِّلۡنَا مَا لَا طَاقَةَ لَنَا بِهِۦۖ وَٱعۡفُ عَنَّا وَٱغۡفِرۡ لَنَا وَٱرۡحَمۡنَآۚ أَنتَ مَوۡلَىٰنَا فَٱنصُرۡنَا عَلَى ٱلۡقَوۡمِ ٱلۡكَٰفِرِينَ ٢٨٦﴾ [سورة البقرة: 286]
{Allah không bắt một linh hồn nào gánh vác trách nhiệm quá khả năng của nó. Nó sẽ hưởng phúc về điều tốt mà nó đã làm và sẽ chịu phạt về tội mà nó đã gây ra. Lạy Thượng Đế, xin Ngài đừng bắt tội bầy tôi nếu bầy tôi quên hay sai sót. Lạy Thượng Đế, xin Ngài đừng bắt bầy tôi gánh vác nặng nề giống như Ngài đã đặt gánh nặng lên những người trước bầy tôi. Lạy Thượng Đế, xin Ngài đừng bắt bầy tôi gánh lấy những gì vượt quá khả năng của bầy tôi, xin Ngài hãy lượng thứ cho bầy tôi, tha thứ tội lỗi cho bầy tôi và thương xót cho bầy tôi, Ngài là Đấng Bảo Hộ của bầy tôi, xin Ngài phù hộ bầy tôi thắng những kẻ vô đức tin.} (Chương 2 – Albaqarah, câu 286).
Tôn giáo của Allah I là tôn giáo đơn giản, dễ dàng, không có sự khó khăn và trở ngại. Bởi thế, Allah I không hề yêu cầu đám bầy tôi của Ngài những sự việc mà họ không kham nổi. Ai làm điều tốt sẽ đạt được điều tốt, còn ai làm điều xấu thì sẽ gặp phải điều xấu.
Allah I dạy các bề tôi của Ngài những lời cầu xin Ngài: Lạy Thượng Đế của bầy tôi, xin Ngài chớ trừng phạt bầy tôi đối với những gì mà bầy tôi lỡ quên và thiếu sót từ những nghĩa vụ và bổn phận mà Ngài đã qui định cho bầy tôi; xin Ngài chớ trừng phạt bầy tôi nếu như bầy tôi lầm lỡ phạm vào điều cấm mà Ngài đã sắc lệnh. Lạy Thượng Đế, xin Ngài đừng bắt bầy tôi những việc làm quá khả năng của bầy tôi cũng như xin Ngài đừng giáng xuống cho bầy tôi những thử thách quá sức chịu đựng của bầy tôi, xin Ngài bôi xóa tội lỗi cho bầy tôi, che đậy những điều xấu hổ của bầy tôi, xin Ngài tử tế với bầy tôi, Ngài là Đấng Chi Phối mọi vụ việc của bầy tôi, xin Ngài giúp bầy tôi giành thắng lợi trước những kẻ chống phá tôn giáo của Ngài, những kẻ phản đối việc độc tôn Ngài và những kẻ đã phủ nhận vị Nabi của Ngài – Muhammad, và xin Ngài hãy để bầy tôi có được kết cục tốt đẹp ở cuộc sống thế gian và ở cõi Đời Sau.
********

 

 

 

 

 

 

Các Chương Ngắn
*****
Chương 93 – Adh-Dhuha
﴿وَٱلضُّحَىٰ ١ وَٱلَّيۡلِ إِذَا سَجَىٰ ٢ مَا وَدَّعَكَ رَبُّكَ وَمَا قَلَىٰ ٣﴾
Thề bởi buổi ban mai, thề bởi ban đêm khi nó tĩnh mịch và tối mù rằng Thượng Đế của Ngươi không bỏ rơi cũng không ghét Ngươi. (Câu 1 – 3).
Allah I thề bởi buổi ban mai mang ý nghĩa toàn bộ ban ngày và thề bởi ban đêm khi nó đến làm mọi sự vật trở nên yên lặng, vắng vẻ cùng với không gian tối mịt. Allah là Đấng Tạo Hóa, Ngài thề với bất cứ thứ gì trong tạo vật của Ngài, bởi vì Ngài muốn làm gì tùy ý Ngài. Riêng con người và các tạo vật khác của Ngài không được phép thề thốt với ai (vật) khác ngoài Ngài, bởi vì đó là hành vi Shirk với Ngài.
AllahI thề với ban ngày và ban đêm rằng Ngài không hề bỏ mặc Thiên sứ Muhammad e và cũng không hề ghét Người khi Ngài trì hoãn và chậm lại việc mặc khải cho Người.
﴿وَلَلۡأٓخِرَةُ خَيۡرٞ لَّكَ مِنَ ٱلۡأُولَىٰ ٤ وَلَسَوۡفَ يُعۡطِيكَ رَبُّكَ
فَتَرۡضَىٰٓ ٥﴾
Và chắc chắn Đời sau tốt cho Ngươi hơn đời sống ban đầu. Và chắc chắn Thượng Đế của Ngươi sẽ ban cho Ngươi điều làm Ngươi hài lòng. (Câu 4, 5).
Allah I phán bảo với Thiên sứ Muhammad e rằng cuộc sống ở cõi Đời Sau sẽ tốt cho Người, tốt hơn cuộc sống trần gian mà Người đang hiện diện. Và rồi đây, Ngài sẽ ban cho Người nhiều ân huệ tốt đẹp trong cuộc sống nơi đó và chắc chắn Người sẽ hài lòng về sự ban phát đó của Ngài.
﴿أَلَمۡ يَجِدۡكَ يَتِيمٗا فَ‍َٔاوَىٰ ٦ وَوَجَدَكَ ضَآلّٗا فَهَدَىٰ ٧ وَوَجَدَكَ عَآئِلٗا فَأَغۡنَىٰ ٨﴾
Há Ngài đã không thấy Ngươi mồ côi nên đã ban cho Ngươi một chỗ nương tựa ư? Và chẳng phải Ngài thấy Ngươi lang thang (tìm Chân lý) nên đã ban cho Ngươi một Chỉ đạo? Và chẳng phải Ngài thấy Ngươi nghèo khó nên đã ban cho Ngươi sự giàu có? (Câu 6 - 8).
Allah I hỏi Thiên sứ Muhammad e nhưng mang ý nghĩa khẳng định rằng Ngài đã thấy Người mồ côi không cha mẹ nên đã ban cho Người một nơi nương tựa tốt đẹp; Ngài đã thấy Người không biết Kinh sách và không có đức tin Iman nên đã đạy Người Kinh Sách làm nguồn hướng dẫn và chỉ đạo để Người sống và hành đạo một cách tốt đẹp và thành công; và Ngài đã thấy Người nghèo khó nên Ngài đã ban cho Người bổng lộc rồi làm cho tấm lòng của Người biết hài lòng và biết kiên nhẫn, và sự biết hài lòng cũng như biết kiên nhẫn chính là nguồn tài sản giàu có và quí báu nhất.
﴿فَأَمَّا ٱلۡيَتِيمَ فَلَا تَقۡهَرۡ ٩ وَأَمَّا ٱلسَّآئِلَ فَلَا تَنۡهَرۡ ١٠ وَأَمَّا بِنِعۡمَةِ رَبِّكَ فَحَدِّثۡ ١١﴾
Bởi thế, đối với trẻ mồ côi Ngươi chớ nên bạc đãi (chúng); đối với người ăn xin Ngươi chớ nên xua đuổi (họ); và Ngươi hãy tuyên bố về Ân huệ của Thượng Đế của Ngươi. (Câu 9 - 11).
Allah I nghiêm cấm Thiên sứ Muhammad e và các tín đồ của Người cư xử tệ bạc với trẻ mồ côi mà phải luôn cư xử tử tế và tốt bụng với chúng, Ngài cấm họ la mắng, xua đuổi những người ăn xin mà phải bố thí thức ăn và giúp đỡ họ những gì họ cần; Ngài ra lệnh bảo Người phải tuyên bố về ân huệ của Ngài như một sự tạ ơn Ngài.
*******
Chương 94 – Ash-Sharh
﴿أَلَمۡ نَشۡرَحۡ لَكَ صَدۡرَكَ ١ وَوَضَعۡنَا عَنكَ وِزۡرَكَ ٢ ٱلَّذِيٓ أَنقَضَ ظَهۡرَكَ ٣ وَرَفَعۡنَا لَكَ ذِكۡرَكَ ٤﴾
Há TA đã không mở rộng lòng ngực cho Ngươi và trút bỏ khỏi Ngươi gánh nặng đã đè nặng lên lưng của Ngươi? Và chẳng phải TA đã nâng cao danh tiếng của Ngươi đó sao?
Allah I phán với Thiên sứ Muhammad e rằng Ngài đã mở rộng lòng ngực cho Người để đón nhận hệ thống giáo lý của Ngài, sự kêu gọi đến với Ngài cùng với một hào quang phẩm chất đạo đức cao quý; Ngài đã làm vơi đi gánh nặng đã đè nặng trên lưng Người và Ngài đã nhấc địa vị của Người lên cao ở nơi Ngài.
﴿فَإِنَّ مَعَ ٱلۡعُسۡرِ يُسۡرًا ٥ إِنَّ مَعَ ٱلۡعُسۡرِ يُسۡرٗا ٦﴾
Quả thật, sự dễ dàng đi đôi với sự khó khăn. Quả thật, sự dễ dàng đi đôi với sự khó khăn.
Allah I phán trấn an Thiên sứ Muhammad e đừng chớ lo âu, những kẻ thù dù muốn ám hại Người cũng  không thể cản trở sứ mạng truyền bá của Người, bởi lẽ cùng với sự gian nan và vất vả sẽ luôn có một lối thoát dễ dàng, tức trong mọi sự việc dù có gian nan và trở ngại thế nào thì vẫn luôn có một lối thoát.
﴿فَإِذَا فَرَغۡتَ فَٱنصَبۡ ٧ وَإِلَىٰ رَبِّكَ فَٱرۡغَب ٨﴾
Bởi thế, khi thư thả, Ngươi hãy đứng dậy (dâng lễ nguyện Salah) và hãy hướng về Thượng Đế của Ngươi (mà cầu nguyện và hy vọng).
Allah I phán bảo Thiên sứ Muhammad e khi nào Người thảnh thơi, không còn bận bịu với các sự việc của cõi trần thì hãy dùng thời gian rảnh rỗi mà năng hành đạo và hãy hướng về một mình Ngài trong việc cầu xin, khấn vái và mong mỏi những điều tốt đẹp nơi Ngài.
*******

Chương 95 – Attin
﴿وَٱلتِّينِ وَٱلزَّيۡتُونِ ١ وَطُورِ سِينِينَ ٢ وَهَٰذَا ٱلۡبَلَدِ ٱلۡأَمِينِ ٣ لَقَدۡ خَلَقۡنَا ٱلۡإِنسَٰنَ فِيٓ أَحۡسَنِ تَقۡوِيمٖ ٤ ثُمَّ رَدَدۡنَٰهُ أَسۡفَلَ سَٰفِلِينَ ٥ إِلَّا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَعَمِلُواْ ٱلصَّٰلِحَٰتِ فَلَهُمۡ أَجۡرٌ غَيۡرُ مَمۡنُونٖ ٦﴾
{Thề bởi cây Sung và cây Ô-liu. Thề bởi ngọn núi Tur Sinai. Thề bởi xứ sở an bình này. Quả thật, TA đã tạo hóa con người với một hình thể tốt đẹp nhất. Nhưng rồi TA sẽ hạ y xuống nơi thấp nhất. Ngoại trừ những ai làm việc thiện tốt thì họ sẽ được ban phần thưởng vô tận.}
Allah I thề bởi cây sung, cây ô liu, và thề bởi ngọn núi Tur Sinai nơi mà Ngài đã nói chuyện với Nabi Musa u; và Allah I thề bởi xứ sở an bình này (ý nói Makkah) - cái nôi của Islam - Quả thật, con người được Ngài tạo hóa trong một hình thể tốt đẹp và hoàn thiện nhất, nhưng Ngài sẽ hạ nhục con người trong Hỏa Ngục nếu như họ không tuân lệnh Ngài cũng như không đi theo sự hướng dẫn và chỉ đạo của các vị Thiên sứ của Ngài. Ngược lại, nếu họ có đức tin rồi hành đạo và làm việc thiện tốt thì họ sẽ được ban thêm ân huệ, đó là họ sẽ được ban một phần thưởng vĩ đại không hề dứt.
﴿فَمَا يُكَذِّبُكَ بَعۡدُ بِٱلدِّينِ ٧﴾
{Thế điều gì khiến ngươi phủ nhận việc phán xử?}
Có nghĩa là, này hỡi con người tại sao ngươi lại phủ nhận sự phục sinh, sự phán xét và thưởng phạt ở Đời Sau trong khi tất cả mọi bằng chứng đã quá rõ ràng về Quyền Năng của Allah, Đấng Vĩ Đại và Tối Cao?
 ﴿أَلَيۡسَ ٱللَّهُ بِأَحۡكَمِ ٱلۡحَٰكِمِينَ ٨﴾
{Chẳng lẽ Allah không phải là Đấng phân định công bằng nhất ư?}.
 Allah I hỏi nhưng mang ý nghĩa khẳng định rằng Ngài là Đấng vô cùng công bằng trong việc phân định giữa nhân loại và các tạo vật của Ngài, Ngài không hề xao lãng con người mà không có sự ra lệnh, ngăn cấm, không có sự trừng phạt và ban thưởng, bởi như thế là Ngài đã không công bằng.
*******
Chương 96 – Al-A’laq
﴿ٱقۡرَأۡ بِٱسۡمِ رَبِّكَ ٱلَّذِي خَلَقَ ١ خَلَقَ ٱلۡإِنسَٰنَ مِنۡ عَلَقٍ ٢ ٱقۡرَأۡ وَرَبُّكَ ٱلۡأَكۡرَمُ ٣ ٱلَّذِي عَلَّمَ بِٱلۡقَلَمِ ٤ عَلَّمَ ٱلۡإِنسَٰنَ مَا لَمۡ يَعۡلَمۡ ٥﴾
{Hãy đọc với nhân danh Thượng Đế của Ngươi, Đấng đã tạo hóa con người từ một hòn máu đặc. Hãy đọc bởi Thượng Đế của Ngươi, Đấng rất mực Quảng đại. Đấng đã dạy bằng cây viết. Đấng đã dạy con người điều y không biết.}
Allah I phán bảo Thiên sứ Muhammad e: Này hỡi Nabi, hãy đọc những gì được mặc khải xuống cho Ngươi từ Qur’an, bởi sự nhân danh Thượng Đế của Ngươi, Đấng Duy Nhất đã tạo hóa vũ trụ và mọi vạn vật, Đấng đã tạo hóa mỗi con người từ một miếng máu đặc. Này hỡi Nabi, Ngươi hãy đọc những gì được mặc khải xuống cho Ngươi. Quả thật, Thượng Đế của Ngươi là Đấng rất mực rộng lượng và vô cùng nhân từ, là Đấng đã dạy con người viết bằng cây viết và đã dạy con người những gì mà con người không biết, là Đấng đã đưa con người từ nơi tối tăm của sự ngu dốt đến với ánh sáng của kiến thức và chân lý.
﴿كَلَّآ إِنَّ ٱلۡإِنسَٰنَ لَيَطۡغَىٰٓ ٦ أَن رَّءَاهُ ٱسۡتَغۡنَىٰٓ ٧ إِنَّ إِلَىٰ رَبِّكَ ٱلرُّجۡعَىٰٓ ٨﴾
{Nhưng quả thật con người thường vượt quá giới hạn. Bởi vì y luôn tự thấy mình giàu có và đầy đủ. Quả thật, chắc chắn y sẽ quay về với Thượng Đế của y.}
Allah I khẳng định: Thực chất con người thường thích vượt quá giới hạn của Ngài, bản chất của con người là như thế, bởi vì con người luôn tự cho mình là giàu có và quá đầy đủ không cần đến sự thương xót của Ngài. Nhưng con người cần phải biết rằng mỗi con người đều sẽ phải quay về trình diện Ngài để Ngài thưởng phạt cho các việc làm của y. Đây là điều hiển nhiên, chắc chắn và kiên định.
﴿أَرَءَيۡتَ ٱلَّذِي يَنۡهَىٰ ٩ عَبۡدًا إِذَا صَلَّىٰٓ ١٠ أَرَءَيۡتَ إِن كَانَ عَلَى ٱلۡهُدَىٰٓ ١١ أَوۡ أَمَرَ بِٱلتَّقۡوَىٰٓ ١٢ أَرَءَيۡتَ إِن كَذَّبَ وَتَوَلَّىٰٓ ١٣ أَلَمۡ يَعۡلَم بِأَنَّ ٱللَّهَ يَرَىٰ ١٤ كَلَّا لَئِن لَّمۡ يَنتَهِ لَنَسۡفَعَۢا بِٱلنَّاصِيَةِ ١٥ نَاصِيَةٖ كَٰذِبَةٍ خَاطِئَةٖ ١٦ فَلۡيَدۡعُ نَادِيَهُۥ ١٧ سَنَدۡعُ ٱلزَّبَانِيَةَ ١٨ كَلَّا لَا تُطِعۡهُ وَٱسۡجُدۡۤ وَٱقۡتَرِب۩ ١٩﴾
{Há ngươi đã không thấy một kẻ đã ngăn cản một bề tôi dâng lễ nguyện Salah? Chẳng lẽ ngươi thấy y được hướng dẫn hay y đã khuyên bảo người khác ngoan đạo? Há ngươi không thấy kẻ đã phủ nhận và quay lưng với sự thật ư? Chắc y tưởng rằng Allah không nhìn thấy y chăng? Nhưng nếu y không chịu dừng lại thì chắc chắn TA sẽ nắm lấy chùm tóc trên trán của y. Một chùm tóc láo khoét và tội lỗi. Hãy để mặc y kêu gọi bè lũ của y. TA sẽ gọi các cảnh vệ Hỏa ngục. Đừng nghe theo y mà hãy đến gần Allah và cúi đầu quỳ lại phủ phục.}
Chẳng phải ngươi không thấy một kẻ đã ngăn cản (ý nói Abu Jahal) một người bề tôi (ý nói Thiên sứ Muhammad) đang dâng lễ nguyện Salah thờ phượng Allah ư? Ngươi cho rằng kẻ ngăn cản người dâng lễ nguyện Salah là người được hướng dẫn hay là người khuyên bảo người khác kính sợ Allah chăng?  Kẻ quay lưng với sự thật và ngăn cản mọi người đến với chân lý, chẳng lẽ ngươi nghĩ rằng Allah không nhìn thấy mọi hành động của hắn sao? Chắc chắn sự việc sẽ không như tên Abu Jahal đã nghĩ, nếu hắn không chịu dừng lại thì TA (Allah) sẽ túm mạnh lấy chùm tóc láo khoét của hắn và lôi hắn vào Hỏa ngục. Cứ để mặc hắn kêu gọi đồng bọn của hắn, TA cho gọi các Thiên thần trừng phạt hắn. Nhưng thực tế, Abu Jahal sẽ không thể thực hiện điều mà hắn muốn hãm hại Thiên sứ. Do đó, Ngươi – Muhammad – chớ đừng nghe theo những gì hắn kêu gọi mà bỏ dâng lễ nguyện Salah mà hãy năng cúi đầu quỳ lạy Thượng Đế của Ngươi và hãy năng phục tùng Ngài để được đến gần Ngài hơn.
********
Chương 97 – Al-Qadr
﴿إِنَّآ أَنزَلۡنَٰهُ فِي لَيۡلَةِ ٱلۡقَدۡرِ ١﴾
{Quả thật, TA đã ban nó xuống vào một đêm định mệnh.}
Allah I cho biết rằng Ngài đã ban Qur’an xuống vào đêm thiêng liêng và hồng phúc, đó là một đêm trong những đêm của tháng Ramadan.
﴿وَمَآ أَدۡرَىٰكَ مَا لَيۡلَةُ ٱلۡقَدۡرِ ٢﴾
{Và Ngươi biết đêm định mệnh là gì không?}
Allah I phán: Này Nabi, Ngươi có biết đêm định mệnh thiêng liêng này có hồng phúc thế nào không?
﴿لَيۡلَةُ ٱلۡقَدۡرِ خَيۡرٞ مِّنۡ أَلۡفِ شَهۡرٖ ٣﴾
{Đêm định mệnh tốt hơn cả một ngàn tháng.}
Allah I phán cho biết rằng đêm định mệnh là đêm có hồng phúc tốt hơn một ngàn tháng – những tháng không có đêm này.
﴿تَنَزَّلُ ٱلۡمَلَٰٓئِكَةُ وَٱلرُّوحُ فِيهَا بِإِذۡنِ رَبِّهِم مِّن كُلِّ أَمۡرٖ ٤﴾
{Đêm đó, các Thiên thần và Đại Thiên thần Jibril xuống trần mang theo Quyết định của Thượng Đế của họ dưới sự cho phép của Ngài.}
Vào đêm định mệnh, sẽ có nhiều Thiên thần và Đại Thiên Thần Jibril xuống tầng trời hạ giới, mang theo Quyết định của Allah I về mọi điều cho năm đó.
﴿سَلَٰمٌ هِيَ حَتَّىٰ مَطۡلَعِ ٱلۡفَجۡرِ ٥﴾
{Đêm đó chỉ có sự bằng an, nó kéo dài cho đến hừng đông.}
Allah I cho biết rằng trong nguyên đêm định mệnh chỉ toàn là sự bằng an, không có một điều xấu nào xảy đến, và sự bằng an này kéo dài cho tới hừng đông.
********
Chương 98 – Al-Bayyinah
﴿لَمۡ يَكُنِ ٱلَّذِينَ كَفَرُواْ مِنۡ أَهۡلِ ٱلۡكِتَٰبِ وَٱلۡمُشۡرِكِينَ مُنفَكِّينَ حَتَّىٰ تَأۡتِيَهُمُ ٱلۡبَيِّنَةُ ١﴾
{Những ai không có đức tin trong số người dân Kinh Sách và những người thờ đa thần đã không chịu bỏ cho đến khi nào sự minh bạch đến với họ.}
Những kẻ vô đức tin trong số những người Do thái và Thiên Chúa giáo, và những người đa thần đã không chịu từ bỏ sự vô đức tin của họ cho đến khi nào những dấu hiệu được nói trong các Kinh sách trước đây đến với họ.
﴿رَسُولٞ مِّنَ ٱللَّهِ يَتۡلُواْ صُحُفٗا مُّطَهَّرَةٗ ٢﴾
{Đó là một vị sứ giả do Allah phái đến đọc các tờ Kinh trong sạch.}
Đó là Nabi Muhammad e, được Allah I cử phái đến để đọc Qur’an trong các tờ kinh trong sạch.
﴿فِيهَا كُتُبٞ قَيِّمَةٞ ٣﴾
{Trong đó, gồm các sắc chỉ chính trực.}
Trong các tờ kinh đó là những nguồn tin trung thực, những mệnh lệnh công bằng và sự chỉ đạo đến với chân lý, con đường ngay chính.
﴿وَمَا تَفَرَّقَ ٱلَّذِينَ أُوتُواْ ٱلۡكِتَٰبَ إِلَّا مِنۢ بَعۡدِ مَا جَآءَتۡهُمُ ٱلۡبَيِّنَةُ ٤﴾
{Và những ai được ban cho Kinh sách đã không chia rẽ nhau cho tới sau khi một sự minh bạch đến với họ.}
Những người được ban cho Kinh sách: Do thái và Thiên chúa giáo đã không bất đồng và chia rẽ nhau về thông tin xuất hiện một vị Thiên sứ tên Muhammmad được báo trước trong các Kinh sách của họ cho tới khi Nabi Muhammad xuất hiện thực sự theo như các Kinh Tawrah (Cựu ước) và Injil (Tân ước) đã nói thì họ mới phủ nhận và chia rẽ nhau.
﴿وَمَآ أُمِرُوٓاْ إِلَّا لِيَعۡبُدُواْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ حُنَفَآءَ وَيُقِيمُواْ ٱلصَّلَوٰةَ وَيُؤۡتُواْ ٱلزَّكَوٰةَۚ وَذَٰلِكَ دِينُ ٱلۡقَيِّمَةِ ٥﴾
{Và họ chỉ được lệnh phải thờ phượng một mình Allah, phải toàn tâm và tuyệt đối hết lòng thần phục Ngài, phải dâng lễ nguyện Salah và đóng Zakah. Và đó mới là tôn giáo ngay chính.}
Tất cả các hệ thống giáo luật từ Allah I đều ra lệnh bảo phải thờ phượng một mình Ngài duy nhất, phải toàn tâm toàn ý hướng về Ngài trong thờ phượng, phải tuyệt đối bài trừ Shirk để đến với đức tin Iman, phải chu đáo dâng lễ nguyện Salah, và phải đóng Zakah. Như thế mới là tôn giáo ngay chính tức Islam.
﴿إِنَّ ٱلَّذِينَ كَفَرُواْ مِنۡ أَهۡلِ ٱلۡكِتَٰبِ وَٱلۡمُشۡرِكِينَ فِي نَارِ جَهَنَّمَ خَٰلِدِينَ فِيهَآۚ أُوْلَٰٓئِكَ هُمۡ شَرُّ ٱلۡبَرِيَّةِ ٦﴾
{Quả thật, những ai không có đức tin trong số người dân Kinh sách và những người thờ đa thần sẽ bị đày vào Hỏa ngục, họ sẽ ở trong đó đời đời. Họ là những sinh vật xấu xa và tồi tệ nhất.}
Allah I phán cho biết rằng những giáo dân Do thái - Thiên chúa và những người đa thần sẽ bị trừng phạt trong Hỏa ngục, họ sẽ ở trong đó đời đời kiếp kiếp, không có ngày trở ra, họ là tạo vật xấu xa nhất trong các tạo vật của Ngài.
﴿إِنَّ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَعَمِلُواْ ٱلصَّٰلِحَٰتِ أُوْلَٰٓئِكَ هُمۡ خَيۡرُ ٱلۡبَرِيَّةِ ٧﴾
{Quả thật, những ai tin tưởng và làm việc thiện tốt thì họ là những sinh vật tốt đẹp nhất.}
Những ai tin Allah I và vâng lời Thiên sứ Muhammad e đồng thời làm việc ngoan đạo và thiện tốt thì họ là tạo vật tốt đẹp nhất trong các tạo vật của Ngài.
﴿جَزَآؤُهُمۡ عِندَ رَبِّهِمۡ جَنَّٰتُ عَدۡنٖ تَجۡرِي مِن تَحۡتِهَا ٱلۡأَنۡهَٰرُ خَٰلِدِينَ فِيهَآ أَبَدٗاۖ رَّضِيَ ٱللَّهُ عَنۡهُمۡ وَرَضُواْ عَنۡهُۚ ذَٰلِكَ لِمَنۡ خَشِيَ رَبَّهُۥ ٨﴾
{Phần thưởng của họ ở nơi Thượng Đế của họ là những ngôi vườn nơi Thiên Đàng bên dưới có các dòng sông chảy. Họ sẽ sống trong đó vĩnh viễn. Allah sẽ hài lòng về họ và họ sẽ toại nguyện về những gì mà Ngài ban cho. Đó là phần thưởng xứng đáng cho những ai đã biết kính sợ Thượng Đế của họ.}
Phần thưởng của họ - những người tin tưởng và làm việc thiện tốt - vào Đời Sau là Thiên Đàng với những ngôi vườn xanh tươi bên dưới có các dòng sông chảy, họ sẽ được sống trong đó đời đời với nguồn ân huệ và bổng lộc vô tận, họ sẽ được Allah I hài lòng và họ cũng sẽ toại nguyện với những gì Ngài ban cho. Đấy là phần thưởng tốt đẹp dành cho những ai kính sợ Allah và tránh xa những điều trái nghịch mệnh lệnh của Ngài.
*******
Chương 99 – Az-Zilzilah
﴿إِذَا زُلۡزِلَتِ ٱلۡأَرۡضُ زِلۡزَالَهَا ١ وَأَخۡرَجَتِ ٱلۡأَرۡضُ أَثۡقَالَهَا ٢ وَقَالَ ٱلۡإِنسَٰنُ مَا لَهَا ٣﴾
{Khi trái đất rung chuyển bởi cuộc động đất. Và trái đất sẽ trút hết gánh nặng của nó ra ngoài. Và con người sẽ bảo: Có chuyện gì xảy ra?}.
Khi trái đất bị chấn động dữ dội và sẽ trút hết gánh nặng của nó tức trút hết những xác chết và mọi vật trong lòng nó thì lúc bấy giờ con người sẽ hoảng sợ, nói: Có chuyện gì thế này?
﴿يَوۡمَئِذٖ تُحَدِّثُ أَخۡبَارَهَا ٤ بِأَنَّ رَبَّكَ أَوۡحَىٰ لَهَا ٥﴾
{Vào Ngày đó, nó sẽ nói hết về mọi sự việc xảy ra trên lưng nó. Bởi Thượng Đế của Ngươi đã mặc khải cho nó.}
Vào Ngày Phục Sinh, Trái đất sẽ tường thuật lại hết mọi sự việc đã xảy ra trên lưng của nó, bởi Allah I bắt nó phải làm điều đó.
﴿يَوۡمَئِذٖ يَصۡدُرُ ٱلنَّاسُ أَشۡتَاتٗا لِّيُرَوۡاْ أَعۡمَٰلَهُمۡ ٦﴾
{Vào Ngày đó, con người sẽ đi ra và phân thành từng đoàn đến để được cho thấy việc làm của họ.}
Ngày đó, con người sẽ đứng dậy và đi ra khỏi ngôi mộ và họ phân thành từng đoàn, từng đoàn riêng biệt đến trình diện trước Allah I để Ngài cho họ thấy mọi việc làm tốt xấu của họ và để Ngài thưởng phạt họ một cách công bằng tương ứng với các việc làm của họ trên thế gian.
﴿فَمَن يَعۡمَلۡ مِثۡقَالَ ذَرَّةٍ خَيۡرٗا يَرَهُۥ ٧ وَمَن يَعۡمَلۡ مِثۡقَالَ ذَرَّةٖ شَرّٗا يَرَهُۥ ٨﴾
{Bởi vậy, ai làm việc thiện tốt dù chỉ nhỏ bằng hạt bụi thì cũng sẽ thấy nó. Và ai làm việc xấu và tội lỗi dù chỉ nhỏ như hạt bụi thì cũng sẽ thấy nó.}
Do đó, người nào làm việc tốt dù chỉ nhỏ bằng hạt nguyên tử thì vào Ngày đó cũng sẽ được ban thưởng xứng đáng, còn người nào làm việc xấu dù chỉ nhỏ như hạt nguyên tử thì cũng sẽ bị xét xử và bị trừng phạt thích đáng. Tất cả mỗi người đều sẽ thấy được việc làm của mình trong Ngày Hôm Đó.
********
Chương 100 – Al-A’diyaat
﴿وَٱلۡعَٰدِيَٰتِ ضَبۡحٗا ١﴾
{Thề bởi những con chiến mã hùng hậu ra trận.}
Allah I thề bởi những con ngựa chiến đang hùng hậu xông pha trên sa trường giao chiến với kẻ thù. Allah I thề bởi bất cứ thứ gì Ngài muốn vì đó là quyền của Ngài, còn tạo vật không được phép thề thốt với bất kỳ ai (vật) ngoài Ngài; ai thề thốt với ai (vật) ngoài Ngài là hành vi Shirk với Ngài.
﴿فَٱلۡمُورِيَٰتِ قَدۡحٗا ٢﴾
{Với những móng chân bắn ra tia lửa.}
Các móng chân của những con ngựa chiến hùng hậu chạy trên sa trường đã cọ xát mạnh vào đá làm bắn ra những tia lửa. Hình ảnh miêu tả về sự hùng dũng của những con chiến mã khi ra trận.
﴿فَٱلۡمُغِيرَٰتِ صُبۡحٗا ٣﴾
{Tấn công vào buổi hừng sáng.}
Những con chiến mã hăng hái tấn công kẻ thù vào buổi sớm mai.
﴿فَأَثَرۡنَ بِهِۦ نَقۡعٗا ٤﴾
{Làm tung bụi mịt mù.}
Chúng xông mạnh vào kẻ thù làm tung bụi mịt mù.
﴿فَوَسَطۡنَ بِهِۦ جَمۡعًا ٥﴾
{Đồng loạt xông thẳng vào lòng quân địch.}
Tất cả đều cùng nhau tiến thẳng vào lòng quân địch một cách hùng hồn.
﴿إِنَّ ٱلۡإِنسَٰنَ لِرَبِّهِۦ لَكَنُودٞ ٦ وَإِنَّهُۥ عَلَىٰ ذَٰلِكَ لَشَهِيدٞ ٧ وَإِنَّهُۥ لِحُبِّ ٱلۡخَيۡرِ لَشَدِيدٌ ٨﴾
{Quả thật, con người đã không biết ơn Thượng Đế của y. Và chính y sẽ làm chứng cho điều đó. Và quả thật y quá đỗi yêu thích tiền tài và của cải.}
Allah I phán rằng bản chất con người thường vô ơn với biết bao ân huệ mà Ngài ban cho, và sự vô ơn của con người sẽ do bản thân con người xác nhận và làm chứng, và bản chất con người thường chỉ biết yêu thích tiền tài và của cải.
﴿أَفَلَا يَعۡلَمُ إِذَا بُعۡثِرَ مَا فِي ٱلۡقُبُورِ ٩﴾
{Chẳng lẽ y không biết rằng rồi đây những gì nằm trong mộ đều bị quật lên ư?}
Allah I phán hỏi: Há con người không biết là rồi đây vào Ngày Phục sinh, Ngài sẽ cho tất cả sống lại và đi ra từ cõi mộ đến một nơi trình diện trước Ngài để Ngài xét xử và thưởng phạt ư?
﴿وَحُصِّلَ مَا فِي ٱلصُّدُورِ ١٠﴾
{Và mọi điều trong lòng đều được phơi bày.}
Vào Ngày đó, tất cả mọi điều tốt xấu được che giấu trong lòng trên cõi trần sẽ bị phơi bày toàn bộ trước Ngài.
﴿إِنَّ رَبَّهُم بِهِمۡ يَوۡمَئِذٖ لَّخَبِيرُۢ ١١﴾
{Quả thật, vào Ngày đó, Thượng Đế của họ rất am tường mọi điều.}
Quả thật, Allah I biết rõ hết mọi điều, vào Ngày đó, không có điều gì có thể che giấu được Ngài, tất cả đều được phơi bày, không có bất điều gì được bỏ sót, dù lớn hay nhỏ.
********
Chương 101 – Al-Qari’ah
﴿ٱلۡقَارِعَةُ ١﴾
Al-Qari’ah!
Đây là tên gọi trong các tên gọi của Ngày Phục sinh. Nó được gọi như vậy bởi vì vào Ngày Phục sinh, con người sẽ vô cùng sợ hãi hoặc vào Ngày đó kẻ thù của Allah I sẽ kinh hồn bạt vía khi thấy hình phạt của Ngài.
﴿مَا ٱلۡقَارِعَةُ ٢﴾
Al-Qari’ah là gì thế?
Al-Qari’ah sẽ như thế nào?
﴿وَمَآ أَدۡرَىٰكَ مَا ٱلۡقَارِعَةُ ٣﴾
{Và Ngươi biết gì về Al-Qari’ah?}
Này hỡi Muhammad, điều gì cho Ngươi biết về Ngày Al-Qari’ah đó?
﴿يَوۡمَ يَكُونُ ٱلنَّاسُ كَٱلۡفَرَاشِ ٱلۡمَبۡثُوثِ ٤﴾
{Đó là Ngày mà con người sẽ như bươm bướm bay tán loạn.}
Vào Ngày đó, con người hoảng sợ chạy tán loạn, hình ảnh đó giống như những con bươm bướm bay loạn xạ.
﴿وَتَكُونُ ٱلۡجِبَالُ كَٱلۡعِهۡنِ ٱلۡمَنفُوشِ ٥﴾
{Và những quả núi như những sợi lông cừu bị bắn tung lên.}
Những quả núi sẽ biến mất, hình ảnh của nó giống như những sợi lông cừu bị thổi tung lên bay tứ tán rồi mất dạng.
﴿فَأَمَّا مَن ثَقُلَتۡ مَوَٰزِينُهُۥ ٦ فَهُوَ فِي عِيشَةٖ رَّاضِيَةٖ ٧﴾
{Do đó, đối với ai mà chiếc cân của y nặng, y sẽ được hưởng một đời sống hài lòng và toại nguyện.}
Vào Ngày đó, đối với ai mà những việc làm thiện tốt của y có trọng lượng nặng trên chiếc cân ở nơi Allah I thì sẽ được ban cho một cuộc sống vô cùng hạnh phúc và toại nguyện nơi Thiên Đàng.
﴿وَأَمَّا مَنۡ خَفَّتۡ مَوَٰزِينُهُۥ٨ فَأُمُّهُۥ هَاوِيَةٞ ٩﴾
{Còn đối với ai mà chiếc cân của y nhẹ, chỗ ở của y sẽ là Ha-wiyah.}
Vào Ngày đó, đối với ai mà việc làm thiện tốt của y có trọng lượng nhẹ trên chiếc cân nơi Allah I thì sẽ bị đày vào Ha-wiyah.
﴿وَمَآ أَدۡرَىٰكَ مَا هِيَهۡ ١٠﴾
{Và Ngươi biết gì về Ha-wiyah?}
Này Thiên sứ Muhammad, Ngươi có biết Ha-wiyah là gì không?
﴿نَارٌ حَامِيَةُۢ ١١﴾
{Đó là ngọn lửa cháy dữ dội.}
Đó là nơi của những ngọn lửa cháy dữ dội.
********
Chương 102 – Attakathur
﴿أَلۡهَىٰكُمُ ٱلتَّكَاثُرُ ١﴾
{Việc muốn có được nhiều tiền tài và con cái đã làm các ngươi bận rộn.}
Việc bận rộn tìm kiếm và tích góp nhiều của cải cũng như việc bận rộn với con cái khiến các ngươi xao lãng việc tuân lệnh Allah I.
﴿حَتَّىٰ زُرۡتُمُ ٱلۡمَقَابِرَ ٢﴾
{Cho đến khi các ngươi đi viếng cõi mộ.}
Các ngươi cứ bận bịu với con cái, cứ mãi mê và miệt mài tìm kiếm tiền tài của cải cho đến khi các ngươi xuống mộ.
﴿كَلَّا سَوۡفَ تَعۡلَمُونَ ٣﴾
{Nhất định các ngươi sẽ sớm biết.}
Rồi đây, các ngươi chắc chắn sẽ sớm biết rằng lẽ ra không nên quá bận rộn với con cái và tiền của mà quên mất Allah I như vậy, các ngươi sẽ sớm biết những gì ở Đời Sau sẽ tốt hơn những gì trên thế gian này.
﴿ثُمَّ كَلَّا سَوۡفَ تَعۡلَمُونَ ٤﴾
{Rồi đây, chắc chắn các ngươi sẽ sớm biết.}
Lời lặp lại nhằm để nhấn mạnh rằng rồi đây các ngươi sẽ sớm biết hậu quả của việc bận rộn với con cái và tiền của mà quên mất bổn phận đối với Allah I.
﴿كَلَّا لَوۡ تَعۡلَمُونَ عِلۡمَ ٱلۡيَقِينِ ٥ لَتَرَوُنَّ ٱلۡجَحِيمَ ٦ ثُمَّ لَتَرَوُنَّهَا عَيۡنَ ٱلۡيَقِينِ ٧ ثُمَّ لَتُسۡ‍َٔلُنَّ يَوۡمَئِذٍ عَنِ ٱلنَّعِيمِ ٨﴾
{Không. Phải chi các ngươi biết với một sự hiểu biết kiên định. Chắc chắn các ngươi sẽ thấy lửa của Hỏa ngục. Rồi đây chắc chắn các ngươi sẽ nhìn thấy nó bằng mắt một cách khẳng định. Rồi vào Ngày đó, chắc chắn các ngươi sẽ bị tra hỏi về những lạc thú.}
Đáng lẽ ra, các ngươi không nên quá bận rộn với con cái và tiền của nếu như các ngươi thực sự biết về sự thật mà các ngươi phải đối mặt ở Ngày Sau. Rồi các ngươi sẽ thấy Hỏa ngục bằng mắt thật của các ngươi, rồi các ngươi sẽ bị hạch hỏi hết tất cả những lạc thú mà các ngươi đã từng hưởng thụ trên cõi trần.
*******
Chương 103 – Al-Asr
﴿وَٱلۡعَصۡرِ ١ إِنَّ ٱلۡإِنسَٰنَ لَفِي خُسۡرٍ ٢﴾
{Thề bởi thời gian. Quả thật, con người luôn ở trong sự thua thiệt.}.
Allah I thề bởi thời gian rằng con người (tức con cháu của Adam) chắc chắn sẽ bị thất bại và hủy diệt. Người bề tôi không được phép thề thốt với ai (vật) khác ngoài Allah I, bởi việc thề thốt với ai (vật) khác ngoài Allah I là hành vi Shirk.
﴿إِلَّا ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَعَمِلُواْ ٱلصَّٰلِحَٰتِ وَتَوَاصَوۡاْ بِٱلۡحَقِّ وَتَوَاصَوۡاْ بِٱلصَّبۡرِ ٣﴾
{Trừ những ai có đức tin và làm việc thiện tốt, khuyên bảo nhau đến với chân lý và khuyên bảo nhau kiên nhẫn.}
Ngoại trừ những người có đức tin nơi Allah I và Thiên sứ của Ngài e rồi làm việc thiện tốt và khuyên bảo nhau giữ gìn, duy trì Chân lý cũng như khuyên bảo nhau kiên nhẫn trong việc tuân lệnh Ngài.
*******
Chương 104 – Al-Humazah
﴿وَيۡلٞ لِّكُلِّ هُمَزَةٖ لُّمَزَةٍ ١﴾
{Thật khốn thay cho kẻ vu khống và nói xấu người khác.}
Những kẻ vu khống và nói xấu người khác sẽ bị nguyền rủa và sẽ bị trừng phạt.
﴿ٱلَّذِي جَمَعَ مَالٗا وَعَدَّدَهُۥ ٢﴾
{Kẻ đã vơ vét tiền bạc và luôn tay đếm nó.}
Kẻ chỉ biết lo toan cho việc thu nhặt tiền tài và chỉ biết đếm tiền để xem được bao nhiêu. Đó là điều quan tâm duy nhất và quan trọng nhất đối với kẻ đó.
﴿يَحۡسَبُ أَنَّ مَالَهُۥٓ أَخۡلَدَهُۥ ٣﴾
{Y cứ tưởng rằng tiền tài sẽ làm cho y sống mãi.}
Y tưởng rằng việc sở hữu được nhiều tiền tài đảm bảo cho sự sống mãi ở nơi trần gian và tránh khỏi sự thanh toán ở Đời Sau.
﴿كَلَّاۖ لَيُنۢبَذَنَّ فِي ٱلۡحُطَمَةِ ٤﴾
{Chắc chắn là không như vậy. Chắc chắn y sẽ bị quăng vào Hutroamah.}
Chắc chắn sẽ không như y đã tưởng. Chắc chắn y sẽ bị đày trong Hutroamah, một nơi của sự đau đớn.
﴿وَمَآ أَدۡرَىٰكَ مَا ٱلۡحُطَمَةُ ٥﴾
{Và Ngươi có biết Hutroamah là gì không?}
Này Thiên sứ, Ngươi có biết sự thật của Hutroamah là thế nào không?
﴿نَارُ ٱللَّهِ ٱلۡمُوقَدَةُ ٦ ٱلَّتِي تَطَّلِعُ عَلَى ٱلۡأَفۡ‍ِٔدَةِ٧﴾
{Đó là lửa của Allah, được đốt cháy lên. Nó sẽ đốt cháy cao lên tận các quả tim.}
Đó là ngọn lửa của Allah I được đốt cháy lên rất dữ dội để thiêu đốt thân thể đến tận trái tim.
﴿إِنَّهَا عَلَيۡهِم مُّؤۡصَدَةٞ ٨ فِي عَمَدٖ مُّمَدَّدَةِۢ ٩﴾
{Quả thật, nó sẽ bao vây chúng. Bên trong các cột lửa cháy tỏa rộng.}
Lửa sẽ bao vây xung quanh chúng, và chúng sẽ bị xiềng xích không thể thoát ra được.
********
Chương 105 – Al-Feel
﴿أَلَمۡ تَرَ كَيۡفَ فَعَلَ رَبُّكَ بِأَصۡحَٰبِ ٱلۡفِيلِ ١﴾
{Chẳng lẽ Ngươi không thấy Thượng Đế của Ngươi đã đối xử với đoàn quân cưỡi voi như thế nào ư?}
Này Thiên sứ Muhammad, há Ngươi chưa từng nghe về việc Thượng Đế của Ngươi đã trừng phạt đoàn quân cưỡi voi do Vua của xứ sở Alhabashah tên Abrahah chỉ huy tiến về Makkah muốn hủy hoại ngôi đền thiêng liêng Ka’bah như thế nào ư?
﴿أَلَمۡ يَجۡعَلۡ كَيۡدَهُمۡ فِي تَضۡلِيلٖ ٢﴾
{Chẳng phải Ngài đã phá hỏng kế hoạch của bọn chúng đó sao?}
Allah I khẳng định chính Ngài đã đập tan kế hoạch xấu xa của chúng.
﴿وَأَرۡسَلَ عَلَيۡهِمۡ طَيۡرًا أَبَابِيلَ ٣ تَرۡمِيهِم بِحِجَارَةٖ مِّن سِجِّيلٖ ٤﴾
{Và Ngài đã cho đàn chim bay đến thành từng đoàn tiêu diệt chúng. Ném chúng với những viên đá Sijjil.}
Ngài đã gởi xuống những đàn chim gắp những viên đá được đun nóng tiếp nối nhau thả xuống.
﴿فَجَعَلَهُمۡ كَعَصۡفٖ مَّأۡكُولِۢ ٥﴾
{Thế là, chúng chết la liệt như những cọng rạ khô sau mùa gặt hái.}
Chúng bị trúng những viên đá và bị tiêu diệt tất cả, chúng nằm la liệt giống như những cọng rạ khô sau mùa gặt hái.
*********
Chương 106 - Quraish
﴿لِإِيلَٰفِ قُرَيۡشٍ ١ إِۦلَٰفِهِمۡ رِحۡلَةَ ٱلشِّتَآءِ وَٱلصَّيۡفِ ٢﴾
{Để bảo vệ bộ tộc Quraish được yên bình. TA đã làm bằng an cho họ trong chuyến đi vào mùa đông và chuyến đi vào mùa hạ.}
Để cải thiện cuộc sống của bộ tộc Quraish, TA (Allah) đã tạo điều kiện thuận lợi cho họ di chuyển đến Yemen vào mùa đông và đến Sham (nay được chia thành bốn quốc gia: Jordan, Sirya, Palestine và Li-băng) vào mùa hè.
﴿فَلۡيَعۡبُدُواْ رَبَّ هَٰذَا ٱلۡبَيۡتِ ٣﴾
{Do đó, họ phải thờ phượng Thượng Đế của Ngôi đền thiêng này.}
Do đó, họ nên tạ ơn mà thờ phượng Thượng Đế của Ngôi đền thiêng này – đó là Ka’bah – Đấng đã ban cho sự cao quý và vinh dự qua ngôi đền đó, với ngôi đền này Ngài đã hợp nhất các cộng đồng, và với nó Ngài để các bề tôi của Ngài thể hiện sự độc tôn hóa Ngài trong thờ phượng.
﴿ٱلَّذِيٓ أَطۡعَمَهُم مِّن جُوعٖ وَءَامَنَهُم مِّنۡ خَوۡفِۢ ٤﴾
{Đấng đã cho họ ăn khi họ đói và ban cho họ an lành khỏi điều sợ hãi.}
Allah I cho biết rằng chính Ngài đã cung cấp thức ăn cho họ khi họ đói và làm cho họ an toàn khỏi những tai ách.
*********
Chương 107 – Al-Ma’un
﴿أَرَءَيۡتَ ٱلَّذِي يُكَذِّبُ بِٱلدِّينِ ١﴾
{Ngươi thấy chăng kẻ phủ nhận sự Phán xét?}
Này Thiên sứ Muhammad, Ngươi có thấy không những kẻ phủ nhận sự Phục sinh và thưởng phạt?
﴿فَذَٰلِكَ ٱلَّذِي يَدُعُّ ٱلۡيَتِيمَ ٢﴾
{Bởi thế nên hắn đã hắt hủi trẻ mồ côi.}
Bởi không tin sự Phục sinh và thưởng phạt ở Ngày Sau nên hắn mới đối xử không tử tế với trẻ mồ côi vì trái tim của hắn đã chai cứng.
﴿وَلَا يَحُضُّ عَلَىٰ طَعَامِ ٱلۡمِسۡكِينِ ٣﴾
{Và hắn cũng chẳng hề thúc giục việc nuôi ăn người túng thiếu.}
Ngay cả việc thúc giục người khác nuôi ăn người túng thiếu mà hắn cũng không làm thì làm sao hắn có thể tự mình làm điều đó với người nghèo.
﴿فَوَيۡلٞ لِّلۡمُصَلِّينَ ٤ ٱلَّذِينَ هُمۡ عَن صَلَاتِهِمۡ سَاهُونَ ٥﴾
{Thật thảm hại cho những người dâng lễ nguyện Salah, những người mà họ thường lơ là trong việc dâng lễ nguyện của họ.}
Một sự trừng phạt thích đáng sẽ dành cho những người không chu đáo dâng lễ nguyện Salah, thường lơ là và bê tha, không thực hiện đúng giờ giấc qui định, thường trễ nải và trì trệ một cách lười biếng.
﴿ٱلَّذِينَ هُمۡ يُرَآءُونَ ٦﴾
{Những ai chỉ muốn phô trương cho người nhìn thấy.}
Và cũng sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc đối với những ai làm việc thiện tốt chỉ muốn được người đời nhìn thấy để khen ngợi và lưu danh.
﴿وَيَمۡنَعُونَ ٱلۡمَاعُونَ ٧﴾
{Và họ thường từ chối giúp đỡ những vật dụng cần thiết.}
Và cũng sẽ bị trừng phạt đối với những ai thường không cho mượn những vật dụng cần thiết nếu ai đó thực sự có nhu cầu, họ là những người keo kiệt và hẹp hòi. Có nghĩa là họ không không đàng hoàng và tử tế trong việc thờ phượng Allah I và cũng không tử tế với tạo vật của Ngài.
*********
Chương 108 – Al-Kawthar
﴿إِنَّآ أَعۡطَيۡنَٰكَ ٱلۡكَوۡثَرَ ١﴾
{Quả thật, TA đã ban cho Ngươi Al-Kauthar.}
Này hỡi Nabi Muhammad, quả thật TA (Allah) đã ban cho Ngươi nhiều ân huệ tốt đẹp ở trên thế gian và cõi Đời Sau, và một trong những ân huệ đó là con sông Kawthar nơi Thiên Đàng, nơi có chiếc lều làm bằng ngọc trai và đất có mùi thơm xạ hương.
﴿فَصَلِّ لِرَبِّكَ وَٱنۡحَرۡ ٢﴾
{Do đó, hãy hướng về Thượng Đế của Ngươi mà dâng lễ nguyện Salah và giết tế.}
Do đó, Ngươi hãy thành tâm vì Allah I mà dâng lễ nguyện Salah cũng như hãy vì Ngài mà giết tế súc vật và nhân danh Ngài.
*********
Chương 109 – Al-Kafirun
﴿قُلۡ يَٰٓأَيُّهَا ٱلۡكَٰفِرُونَ ١﴾
{Hãy nói: Này hỡi những kẻ vô đức tin!}
Này hỡi Thiên sứ Muhammad, Ngươi hãy nói với những kẻ không tin nơi Allah và Thiên sứ của Ngài: Này hỡi những kẻ phủ nhận Allah!
﴿لَآ أَعۡبُدُ مَا تَعۡبُدُونَ ٢﴾
{Ta không thờ những gì mà các ngươi thờ phượng.}
Ta không thờ các pho tượng và các thần linh ngụy tạo mà các ngươi đang thờ phượng.
﴿وَلَآ أَنتُمۡ عَٰبِدُونَ مَآ أَعۡبُدُ ٣﴾
{Và các ngươi cũng không thờ phượng những gì  mà Ta thờ phượng.}.
Và các ngươi cũng không thờ phượng Thượng Đế duy nhất, đó là Allah, Đấng Chủ Tể của muôn loài, Đấng đáng để mọi vạn vật thờ phượng.
﴿وَلَآ أَنَا۠ عَابِدٞ مَّا عَبَدتُّمۡ ٤﴾
{Và Ta chưa bao giờ là người thờ phượng những gì mà các ngươi đã tôn thờ.}.
Và từ nào đến giờ Ta (Muhammad) chưa từng thờ phượng các pho tượng cũng như các thần linh ngụy tạo mà các ngươi đã thờ phượng.
﴿وَلَآ أَنتُمۡ عَٰبِدُونَ مَآ أَعۡبُدُ ٥﴾
{Và các ngươi sẽ không thờ phượng Đấng mà Ta đang thờ phượng.}
Trong tương lai, các ngươi cũng sẽ không thờ phượng Đấng mà Ta thờ phượng nếu các ngươi vẫn thờ phượng các thần linh của các ngươi và vẫn phủ nhận chân lý mà Ta mang đến cho các ngươi. Và câu kinh này được mặc khải nói về những kẻ đa thần mà Allah I biết chúng sẽ không bao giờ có đức tin.
﴿لَكُمۡ دِينُكُمۡ وَلِيَ دِينِ ٦﴾
{Các ngươi có tôn giáo của các ngươi và Ta có tôn giáo của Ta.}
Các ngươi cứ ngoan cố trên tôn giáo không đúng đắn của các ngươi, con Ta đi theo tôn giáo của Ta, Ta sẽ không theo bất cứ tôn giáo nào ngoài nó cả.
********
Chương 110 – Annasr
﴿إِذَا جَآءَ نَصۡرُ ٱللَّهِ وَٱلۡفَتۡحُ ١﴾
{Khi Allah ban cho thắng lợi đến.}
Này hỡi Thiên sứ của Allah, khi nào TA (Allah) ban thắng lợi cho Ngươi, giúp Ngươi đánh bại những kẻ vô đức tin Quraish, và giúp Ngươi chinh phục Makkah.
﴿وَرَأَيۡتَ ٱلنَّاسَ يَدۡخُلُونَ فِي دِينِ ٱللَّهِ أَفۡوَاجٗا ٢﴾
{Và Ngươi thấy thiên hạ từng đoàn, từng đoàn gia nhập tôn giáo của Allah.}
Và khi nào Ngươi – này hỡi Muhammad – thấy thiên hạ vào Islam một cách đông đảo.
﴿فَسَبِّحۡ بِحَمۡدِ رَبِّكَ وَٱسۡتَغۡفِرۡهُۚ إِنَّهُۥ كَانَ تَوَّابَۢا ٣﴾
{Thì Ngươi hãy tán dương Thượng Đế của Ngươi và hãy xin Ngài tha thứ cho Ngươi. Quả thật, Ngài là Đấng Hằng Tha thứ.}.
Lúc đó, Ngươi - Muhammad hãy tán dương Thượng Đế của Ngươi thật nhiều đồng thời xin Ngài tha thứ cho Ngươi, bởi vì Ngươi sắp trở về gặp lại Ngài. Ngươi hãy sám hối cùng Ngài, bởi vì Ngài là Đấng nhân từ và bao dung, Ngài sẽ luôn đón nhận sự sám hối thành tâm.
*******
Chương 111 – Al-Masad
﴿تَبَّتۡ يَدَآ أَبِي لَهَبٖ وَتَبَّ ١﴾
{Abu Lahab, hắn và đôi tay của hắn sẽ bị hủy diệt.}
Abu Lahab sẽ bị trừng phạt vì đã ám hại Thiên sứ Muhammad e. Một lời hứa hẹn từ Thượng Đế, Đấng trừng phạt rất nghiêm khắc.
﴿مَآ أَغۡنَىٰ عَنۡهُ مَالُهُۥ وَمَا كَسَبَ ٢﴾
{Của cải, tiền tài và những gì hắn có được sẽ chẳng giúp ích gì cho hắn.}
Sự giàu sang phú quý của hắn sẽ không thể giải thoát cho hắn khỏi sự trừng phạt của Allah I một khi Ngài giáng xuống cho hắn.
﴿سَيَصۡلَىٰ نَارٗا ذَاتَ لَهَبٖ ٣ وَٱمۡرَأَتُهُۥ حَمَّالَةَ ٱلۡحَطَبِ ٤﴾
{Hắn sẽ bị thiêu đốt trong lửa ngùn ngụt cháy. Và ngay cả vợ của hắn, kẻ đã vác củi gai.}
Hắn sẽ bị đày trong Hỏa ngục, vợ của hắn cũng thế sẽ cùng hội cùng thuyền với hắn trong Hỏa ngục, bởi mụ ta đã vác củi gai ám hại Thiên sứ e.
﴿فِي جِيدِهَا حَبۡلٞ مِّن مَّسَدِۢ ٥﴾
{Cổ của mụ ta sẽ bị thắt bởi sợi dây được xoe từ xơ.}
Mụ ta sẽ bị trói cổ bởi sợi dây được xoe từ xơ rất chắc cứng và bị lôi đi ném vào dưới đáy của Hỏa ngục.
********
Chương 112 – Al-Ikhlaas
﴿قُلۡ هُوَ ٱللَّهُ أَحَدٌ ١﴾
{Hãy nói: Ngài là Allah, Đấng duy nhất.}
Này Muhammad, Ngươi hãy nói: Allah là Đấng duy nhất được tôn thờ, không ai (vật gì) có thể chia sẻ cùng Ngài.
﴿ٱللَّهُ ٱلصَّمَدُ ٢﴾
{Allah là Đấng Tự Hữu.}
Allah I là Đấng không cần bất cứ thứ gì cũng chẳng lệ thuộc bất cứ điều gì.
﴿لَمۡ يَلِدۡ وَلَمۡ يُولَدۡ ٣﴾
{Ngài không sinh đẻ ra ai và cũng không do ai sinh ra.}
Allah I không có con cũng chẳng có đấng sinh thành và cũng không có bạn bè.
﴿وَلَمۡ يَكُن لَّهُۥ كُفُوًا أَحَدُۢ ٤﴾
{Và không có một ai (cái gì) có thể so sánh cùng Ngài.}
Thuộc tính của Ngài, tên của Ngài và các hành động của Ngài đều là siêu việt, không có một ai (vật gì) có thể so sánh với Ngài.
********
Chương 113 – Al-Falaq
﴿قُلۡ أَعُوذُ بِرَبِّ ٱلۡفَلَقِ ١﴾
{Hãy nói: Bề tôi cầu xin Thượng Đế của Al-Falaq che chở.}
Này Muhammad, Ngươi hãy nói: Bề tôi cầu xin sự che chở và cứu rỗi từ nơi Thượng Đế của Al-Falaq, Al-Falaq có nghĩa là bình minh.
﴿مِن شَرِّ مَا خَلَقَ ٢﴾
{Tránh khỏi điều xấu mà Ngài đã tạo.}
Tránh khỏi tất cả mọi điều xấu mà Ngài đã tạo hóa.
﴿وَمِن شَرِّ غَاسِقٍ إِذَا وَقَبَ ٣﴾
{Và tránh khỏi mọi điều xấu của bóng đêm khi nó bao phủ.}
Và tránh khỏi mọi điều xấu trong đêm tối.
﴿وَمِن شَرِّ ٱلنَّفَّٰثَٰتِ فِي ٱلۡعُقَدِ ٤﴾
{Và tránh khỏi mọi điều xấu từ những kẻ phù phép vào những chiếc gút thắt.}
Tránh khỏi mọi điều hãm hại của các bùa phép và ma thuật được thổi vào trong những cái gút thắt.
﴿وَمِن شَرِّ حَاسِدٍ إِذَا حَسَدَ ٥﴾
{Và khỏi sự hãm hại của những kẻ ganh ghét và đố kỵ.}
Khỏi những sự ganh ghét và hãm hại của con người khi được Allah I ban cho những ân huệ.

*********
Chương 114 – Annas
﴿قُلۡ أَعُوذُ بِرَبِّ ٱلنَّاسِ ١﴾
{Hãy nói: Bề tôi cầu xin Thượng Đế của Nhân loại che chở.}
Này hỡi Muhammad, Ngươi hãy nói: Bề tôi cầu xin sự che chở từ Thượng Đế của nhân loại, Đấng duy nhất có quyền năng cản trở mọi điều dữ.
﴿مَلِكِ ٱلنَّاسِ ٢﴾
{Vị Vua của Nhân loại.}
Vị Vua của toàn nhân loại có quyền chi phối mọi việc và không lệ thuộc đến một điều gì.
﴿إِلَٰهِ ٱلنَّاسِ ٣﴾
{Thượng Đế của Nhân loại.}
Đấng đáng được nhân loại thờ phượng, không có ai (vật gì) khác ngoài Ngài có quyền đó.
﴿مِن شَرِّ ٱلۡوَسۡوَاسِ ٱلۡخَنَّاسِ ٤﴾
{Khỏi mọi điều xấu của kẻ thì thào quấy nhiễu.}
Tránh khỏi sự hãm hại và quấy nhiễu của Shaytan, những điều mà nó thì thào xúi bẩy.
﴿ٱلَّذِي يُوَسۡوِسُ فِي صُدُورِ لنَّاسِ٥﴾
{Kẻ thường thì thào vào lòng của nhân loại.}
Tránh khỏi những lời thì thào xúi bẩy làm điều xấu và nghịch đạo.
﴿مِنَ ٱلۡجِنَّةِ وَٱلنَّاسِ ٦﴾
{Từ loài Jinn và loài người.}
Từ những tên Shaytan thuộc loài Jinn và loài người.


 

 

 

 


Mục lục

Trang    Chủ đề    Stt
2    Chương Al-Fatihah         1
7    Ayah Kursi            2
10    Ba Câu Kinh Cuối Của Chương Al-Baqarah       3
15    Các Chương Ngắn           4
15    Chương  93 – Adh-Dhuha    5
17    Chương 94 – Ash-Sharh          6
19    Chương 95 – Attin               7
20    Chương 96 – Al-A’laq         8
23    Chương 97 – Al-Qadr         9
24    Chương 98 – Al-Bayyinah         10
28    Chương 99 – Az-Zilzilah          11
29    Chương 100 – Al-A’diyaat         12
32    Chương 101 – Al-Qari’ah          13
34    Chương 102 – Attakathur          14
35    Chương 103 – Al-Asr           15
36    Chương 104 – Al-Humazah         16
38    Chương 105 – Al-Feel             17
39    Chương 106 – Quraish        18
40    Chương 107 – Al-Ma’un         19
42    Chương 108 – Al-Kawthar           20
42    Chương 109 – Al-Kafirun           21
44    Chương 110 – Annasr           22
45    Chương 111 – Al-Masad        23
46    Chương 112 – Al-Ikhlaas           24
47    Chương 113 – Al-Falaq         25
48    Chương 113 – Annas        26
 
    

 

    

 

Tafseer Chương Al-Fatihah, Ayah Kursi, Ba Câu Cuối Chương Al-Baqarah Và Một Số Chương Ngắn

Завантажити

Про книгу